Bạn đang xem: Những bài thơ chế chửi trung quốc. Đây là bài xích thơ vui nhưng Văn Nguyễn đọc được tự Facebook với xin được share lại thuộc các bạn. Không rõ người sáng tác bài thơ là ai. Tuy nhiên, phần lớn lời thơ cũng xứng đáng để bọn họ học hỏi và giao lưu Cách trung tâm thành phố Ninh Bình khoảng 12 km, từ Cố đô Hoa Lư theo đường Nguyễn Văn Trỗi khoảng 5 km sẽ đến khu núi chùa này. Đến núi chùa Bái Đính, du khách sẽ có cảm giác được hoà mình trong sự nguyên sơ mặc định của núi rừng hoang dã, của thiên nhiên khoáng đạt Bài thơ số 12: Bài thơ chế vui về tết trung thu; Bài thơ số 13: Bài hát rước đèn tháng 8; Bài thơ số 14: Chiếc đèn ông sao; Bài thơ số 15; Bài thơ số 16; Bài thơ số 17; Bài thơ số 18; Bài thơ số 19; Bài thơ số 20; Bài thơ số 21; Bài thơ chế về thầy cô giáo hay nhất. Bài Thơ Chế Về Phụ Nữ. Top những câu thơ chế về phụ nữ siêu hài và lầy nhất quả đất. Thơ chế về con gái. NẾU MÀ KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ. Tác giả: Tiến Trường. Nếu đời không có đàn bà. Đàn ông cô độc có mà chết toi. Thiếu nàng ta sống đua đòi. Cà phê, ma túy, thế rồi Về phần mình, Việt Nam tiếp tục tích cực tham gia vào nỗ lực chung của Liên hợp quốc trong việc giải quyết các vấn đề hòa bình, an ninh khu vực và quốc tế, thúc đẩy quyền con người: Việt Nam đã tích cực tham gia thương lượng và ký Hiệp ước cấm vũ khí hạt nhân 2018 và là nước thứ 10 phê chuẩn Hiệp ước. 1. Thơ về phụ nữ Việt Nam xưa và nay. Bác Hồ đã từng tặng 8 chữ vàng cho người phụ nữ Việt Nam: “Anh hùng - Bất khuất - Trung Hậu - Đảm đang”. Quả thật như vậy, qua những vần thơ về phụ nữ, chúng ta có thể cảm nhận được nét đẹp của người phụ nữ xưa và 1eTP. Từ hình ảnh thân thuộc chung quanh đến những bài học lịch sử tác động đến suy tư của họ về những bài học đắng cay của đất nước. Ngay cả những chiến thắng khó tin của tiền nhân trong công cuộc giữ nước đầy chông gai trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc cũng là đề tài thường thấy trong lĩnh vực thi ca. Những bài thơ ấy giúp cho người đi sau có khái niệm về những xúc tác của thời đại mà nhà thơ đang sống. Ngôn ngữ trong từng bài thơ cũng nói lên hoàn cảnh chính trị, suy tưởng xã hội hay phản ứng của người dân về bối cảnh của một khoảng thời gian nhất định và người đọc thơ thấy rõ hơn những sự kiện xảy ra chung quanh của thời kỳ bài thơ xuất hiện. Bên cạnh những cảm xúc, người đọc còn tìm thấy những trăn trở của các bài thơ viết về Tổ quốc thông qua những câu chuyện có thật của lịch sử, Giáo sư Hà Văn Thịnh là thi sĩ của trường hợp này. Là người giảng dạy lịch sử Giáo sư Thịnh cảm nhận từng chi tiết của các cuộc chiến tranh và các hình ảnh hào hùng lẫn đau thương của dân tộc tác động đến ông chừng như hàng ngày sau mỗi bài giảng, để rồi một lúc nào đó, bài thơ mang tên “Định mệnh” ra đời. Định mệnh nào khiến Việt Nam phải nằm sát bên đế chế Trung Hoa, nơi không biết bao nhiêu lần trong chiều dài lịch sử đã xua quân về Nam xâm lược mảnh đất nhỏ bé chỉ bằng một tỉnh lỵ của mình. Mà lạ kỳ thay, cũng chính định mệnh đã không cho phép Việt Nam bị phương Bắc đồng hóa mặc dù ý muốn này lộ rõ đã hàng ngàn năm. Định mệnh Hà Văn Thịnh Truyền thuyết kểGióng đánh giặc khi mới lên baCó dân tộc nào nhọc nhằn hơn thế?Có nơi đâuLịch sử ngập chìm dâu năm chưa hết giặc trước hiên nhà?Định mệnh thét gào lịch sử bão giôngTa giữ nước nhiều gấp bội phầnThời gian dựng nướcCho mãi đến hôm nay vẫn chưa thể nào có đượcBởi hạnh phúcCũng trông chừng sau, trước“Nửa cái hôn phải tỉnh thức ngó quân thù”[1]Lịch sử nhắc hoài câu chuyện Mẹ Âu CơSao ta phải lên rừng, xuống biển?Kẻ cướp trên núi cao, dưới sóng ngầm hung hiểmBao năm thâm độc rình mò…Chúng muốn ta quỳ – mỏi gối xin, choĐể Hoàng Sa, Trường Sa máu cuộn cùng nước mắtĐể nỗi đau hóa lặng câm giữa hai hàm răng nghiến chặtĐể xa xót tủi hờn nhức mãi tâm can…Không!Lịch sử nói rằng sóng nước Bạch Đằng GiangRừng Chi Lăng, cửa Chương Dương, Hàm Tử…Xác giặc chất chồng, bạo tàn mục rữaViệt Nam ơi, không nhát sợ bao giờ!Chúng nói rằng có cốt khư[2] người Trung Quốc ở Hoàng SaSao không đến gò Đống Đa để bới thêm, nhiều lắm?Thanh Triều ư? Bụi ác tàn ngàn dặmBão Tây Sơn quét sạch, một tuần!Định mệnh nhắc ta rằng Đất Việt gian truânNhưng chữ S chẳng thể nào gục gãyNgười trước ngã, người sau đứng dậyCối Kê ư? “Hoan Diễn do tồn”[3].Lịch sử dạy ta rằng đảo, sóng Biển ĐôngLà máu thịt của giang sơn Tổ quốcLà một nửa của hồn thiêng Đất – NướcChẳng thể đem cho, đem bán vật vờ!Ta hiểu cuộc đời không phải giấc mơNên trang sách phải tựa mình bên giá súngĐịnh mệnh bắt đầu bằng linh danh Phù ĐổngTuổi thơ giữ nước quên mìnhĐịnh mệnh cảnh báo rằngNhẹ dạ Mỵ Châu ơiMột phút buông trôiNgàn năm không xóa nổi“Tình” Ải BắcLà khôn lường gian dốiLông ngỗng bayTrắng bợt chữ “NGỜ”?Định mệnh nhắc em rằngXin hãy đừng quênSống với nguy nanLà bổn phận của muôn vàn con dân ViệtĐất nước hôm nay được sinh thành từ da diếtThà làm ma nước Nam!Thà cả Trường Sơn cháy hết!Chẳng cam tâm quỳ xuống, bao giờ! Bài thơ đọc xong vẫn còn vang tiếng sóng Bạch Đằng ầm ào nhắc nhở và đâu đây trong từng hơi thở Việt vẫn không quên Ngọc Hồi, Đống Đa với bao xác giặc. Tác giả gợi lại lịch sử như một nhắc nhở cho người nay rằng xương tàn của giặc không làm cho người Việt ngủ quên mà phải thức tỉnh hàng ngày với những âm mưu mới lúc nào cũng chầm chập vào dải đất này. Từ Sông Hồng, Lưu Quang Vũ bài thơ “Sông Hồng-hồi ức của một nghĩa binh già”. Bài thơ cuồn cuộn những chi tiết và người đọc thơ Lưu Quang Vũ say đắm theo chân người nghĩa binh kể lại câu chuyện hùng tráng của một thời chống Pháp. Bài thơ đầy kịch tính, dựng lại không gian của Sông Hồng những ngày rừng rực lửa chống quân thù. Giặc Tàu hay giặc Pháp cũng đều là giặc nếu bước chân vào mảnh đất này với lòng tham cướp nước. Sông Hồng – hồi ức của một nghĩa binh già Lưu Quang Vũ Tượng đài chiến thắng dựng tại Ải Chi Lăng. Photo courtesy of Wikipedia. Chiếc tàu đen xuất hiện phía chân trờithân cá mập lừ lừ tối sẫmlá cờ lạ chập chờn khói sóngmiệng súng tròn hung dữ ngước lênnhững bóng người cao lớn lênh khênhgăng tay trắng, ống nhòm dài lấp loángnhững mặt đỏ mũi khoằm râu rậmgườm gườm trên tàu sắtầm ầm xả khói ven sông bầy le le náo động bay tungngười đánh cá ngừng tay kéo vótrẻ bắt cua quẳng giỏdân làng kinh ngạc nhìn rachưa ai hay cột khói đen kiasẽ mang đến nước Namtám mươi năm nô lệ Lưu Quang Vũ với tài năng của một kịch tác gia đã thổi hồn kịch vào bài thơ qua các chi tiết nhỏ nhất khiến nguời đọc dù không chứng kiến vẫn cảm nhận đựơc câu chuyện diễn biến trước mặt một cách sống động, đầy ắp các mảnh nhỏ liên kết với nhau để trở thành một thiên anh hùng ca của những con người yêu nước mà Đội Cấn là một điển hình. tiếng hò reo trăm thuyền nhỏ lao đitôi ngang dọc khắp đầm lầy Bãi Sậygiặc vây thuyền đốt bãitôi bắn trả giữa mịt mùng lửa khóinghiến răng thà chết không hàngxác tôi hoá thành thanthành lửa đóm lập lòe đỉnh bãivượt đồn binh sông Cáiqua Yên Thế Nhã Namlên đồi dẻ rừng limtôi thổi ống xì đồngtrong nghĩa quân Đề Thámquân vỡ, nhà tan, nước tậnxác cụ Phan Pháp nhồi cùng thuốc đạnbắn xuống sông sâu, dân đấm ngực khóc gàogiặc băm nát thân tôi châm lửa tưới dầunhưng tôi nào chịu khuấthồn tôi nơi rừng thẳmcanh khuya vang tiếng hổ gầm cùng Đội Cấn Đội Cung quay súng cướp đồntôi trộn cà độc dược vào cơmxé gan giặc trong “Hà thành đầu độc”chúng đặt tôi lên lưỡi cày nung bỏng“cũng thành nhân…” tôi ngẩng nhìn máy chémđầu rơi mắt vẫn mở trừng tôi lang thang khắp đồng bãi sông Hồngngày vùi gươm dưới cátđêm trăng lạnh sương lạnhtôi mài trên đá tảng lưỡi gươm xanhđợi dịp vào thànhlấy lại nhà lại nướcnhìn đoàn tàu giặcnhư rắn đen đi hút máu dân mìnhngực tôi ngàn vết thươngmặt tôi ngàn vết nhụctôi là người lính già tóc bạctôi là tám mươi năm uất ứctôi là con của sông Hồng sôi sụcđêm đêm trên cátmài gươm. Hình ảnh mài gươm bên Sông Hồng tuy chỉ xảy ra trong thơ nhưng những đôi mắt trừng trừng về phía giặc là hình ảnh thật. Nhà thơ Thanh Thảo diễn tả những con người cầm súng tại địa đầu Tổ quốc đối diện với quân thù trong cuộc chiến năm 1979 mà trái đạn chống tăng cùng với nụ cười thỏa nguyện của một người lính trẻ vẫn vang trong tâm tưởng nhà thơ. Tổ quốc Thanh Thảo vệt nắng mỏng trước sân mái gà cục táccon tôi ngủ trong nôi văng vẳng tiếng còi tàubữa cơm gia đình tôi trộn bắp trộn sắn bảy mươi phần trămmùa Xuân những cơn bão hung hãn bất ngờ ập tớitrầm tĩnh như rừng kia như biển kiaTổ quốc tôi đứng lên trước bầy xâm lăng phương Bắcnhững dãy núi cong cánh cung những nỏ thần khủng khiếplại tung hàng loạt mũi tên xuyên ngực quân thùải Nam Quan ngọn khói xưa Nguyễn Trãi nuốt nước mắt quay vềmười năm nằm gai nếm mậthẽm Chi Lăng lầm lì sông Kỳ Cùng bốc cháypháo đã giăng từ ngàn vạn điểm caoquân di chuyển những dòng sông chảy ngượcmây uy nghi Yên Tử thuở nàocòn in dáng Trần Nhân Tông mắt dõi về phương Bắctính nước cờ ung dung trên caosông Kỳ Cùng những tảng đá lên hơiđùa với mặt trời trong nướctôi chỉ đến tắm một lần nhưng đó là Tổ quốcchảy lặng thầm suốt cuộc đời tôinhững câu lượn câu sli đêm chợ Kỳ Lừachén rượu nồng thơm sắc màu thổ cẩmvó ngựa gõ dòn lâng lâng sương khuyakhẩu súng chống tăng ghì chặt vào vaianh xạ thủ H’Mông mười tám tuổikhi lũ giặc đang điên cuồng lao tớimột chấm nhỏ trên bản đồ một chấm nhỏ thiêng liêngphút người lính đứng bật lên cắm chặt chân vào đấtphút ấy, đất dưới chân anh là Tổ quốcquả đạn rời nòng trong chớp mắtxe tăng cháy ngang đồi lũ giặc lùi xaanh lính trẻ mỉm cười lau mồ hôi trên mặtgương mặt dịu lành như Tổ quốc chúng ta Tháng 2/1979 “Tổ quốc gọi tên” là một bài thơ khác của Nguyễn Phan Quế Mai, người con đất Việt tuy sống xa quê hương hàng chục ngàn cây số nhưng con tim vẫn canh cánh với Tổ quốc mình. Khi Tổ quốc gọi tên cũng có nghĩa là đất nước đang trong tình trạng dầu sôi lửa bỏng. Nguyễn Phan Quế Mai cảm nhận sức nóng ấy bằng chính con tim mình. Chiếc nhiệt kế quê hương đã thổi bùng ngọn lửa Tổ quốc trong con tim nhà thơ để từ đó tên của Quế Mai nằm trong danh sách mà nhà thơ cảm thấy hãnh diễn khó diễn tả khi được Tổ quốc chính thức gọi đến. Tổ quốc gọi tên Một phần đảo Hoàng Sa. Photo courtesy of Một phần đảo Hoàng Sa. Photo courtesy of Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mìnhBằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đáTiếng Tổ quốc vọng về từ biển cảNơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vâyTổ quốc của tôi, Tổ quốc của tôiBốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉThắp lên ngọn đuốc Hòa bình, bao người đã ngãMáu của người nhuộm mặn sóng biển ĐôngNgày hôm nay kẻ lạ mặt rập rìnhChúng ngang nhiên chia cắt tôi và Tổ quốcChúng dẫm đạp lên dáng hình đất nướcMột tấc biển cắt rời, vạn tấc đất đớn đauSóng chẳng còn bình yên dẫn lối những con tàuSóng quặn đỏ máu những người đã mấtSóng cuồn cuộn từ Nam chí BắcChín mươi triệu môi người thao thức tiếng “Việt Nam”Chín mươi triệu người lấy thân mình chở che Tổ quốc linh thiêngĐể giấc ngủ trẻ thơ bình yên trong bão tốNgọn đuốc Hòa bình trên tay rực lửaTôi lắng nghe Tổ quốc gọi tên mình Danh sách những bài thơ viết về Tổ quốc còn rất dài trải theo thăng trầm của vận nước. Bất cứ bài thơ nào viết về Tổ quốc người ta khó tìm thấy sự làm dáng hay giả hình, bởi trong từng con tim mỗi nhà thơ, bản thân hai tiếng Tổ quốc đã thiêng liêng như thần thánh. Hình dung về Tổ quốc qua từng giọt mồ hôi dựng nước, từng thân xác ngã xuống để giữ nước và không biết bao nhiêu nhọc nhằn khác để sống còn… Thi sĩ, người châm ngọn lửa yêu nước, người hát bài vinh danh Tổ quốc chứ không ai khác sẽ muôn thuở đặt trái tim mình vào hai tiếng Tổ quốc vừa thân yêu lại vừa kính mến. Theo dòng thời sự Những bài thơ về Trường Sa Những vần thơ chống Trung Quốc Lửa Hồ Gươm trong thơ Trần Mạnh Hảo Những bài thơ viết vội từ hai cuộc biểu tình chống Trung Quốc Hịch Tướng Sĩ Những bài thơ yêu nước Nhà thơ Trần Vàng Sao và “Bài Thơ của Một Người Yêu Nước Mình” Những bài thơ tranh đấu Lai Tân là một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Hồ Chí Minh. Ông không chỉ là một nhà thơ đơn thuần mà còn là một vị cha , một vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam. Những bài thơ của ông gắn liền với giai đoạn kháng chiến của tổ quốc. Ông có một kho tàng thơ vang danh được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến Lai Tân là một bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Hồ Chí Minh. Ông không chỉ là một nhà thơ đơn thuần mà còn là một vị cha , một vị lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt Nam. Những bài thơ của ông gắn liền với giai đoạn kháng chiến của tổ quốc. Ông có một kho tàng thơ vang danh được nhiều thế hệ bạn đọc yêu mến Lai Tân là một bài thơ được trích từ tập thơ ” Nhật Kí Trong Tù ” trong thời ông bị bắt giam. Hồ Chí Minh mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thống trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Bài thơ đã bộc lộ rõ sự phẫn nộ của ông về một xã hội cũ nát Mời các bạn hãy đón xem bài thơ đặc sắc này ngay sau đây! Nội Dung – Hồ Chí Minh 胡志明 1890-1969 tên thật là Nguyễn Sinh Cung, Nguyễn Tất Thành, khi hoạt động ở nước ngoài lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, rồi Hồ Chí Minh. Người sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890, trong một gia đình trí thức nghèo, gốc nông dân. Thân phụ là cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng và từng làm việc cho triều Nguyễn, nhưng bị cách chức vì có tinh thần yêu nước thương dân, ông thường có thái độ chống đối bọn quan trên và bọn thực dân Pháp. – Thân mẫu cụ bà Hoàng Thị Loan là con gái một nhà Nho làm nghề dạy học nên cũng được học ít nhiều, bà tính tình hiền hậu, đảm đang, quen việc đồng áng, dệt vải, hết lòng săn sóc chồng, dạy dỗ các con. Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh và anh là Nguyễn Sinh Khiêm đều vào tù ra tội nhiều lần vì có tham gia chống thực dân Pháp. – Nhưng vượt qua những hạn chế của các nhà yêu nước đi trước, năm 1911 Người quyết định vượt biển sang phương Tây, quê hương của những cuộc cách mạng dân chủ, nơi có nền khoa học và kỹ thuật phát triển để thực hiện mục đích là dành độc lập, tự do. Trước khi xuất dương tìm đường cứu nước Người đã có thời gian học tại các trường học tại Vinh, Huế nên có điều kiện chủ động và nhanh chóng hoà nhập vào xã hội phương Tây. – Người nhanh chóng tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin khi hoạt động trên đất Pháp. Chính vào lúc phong trào cách mạng Pháp đang dâng cao dưới ảnh hưởng tốt đẹp của Cách mạng tháng Mười Nga 1917 và thông qua những đại biểu của những người cùng khổ nhất của nước Pháp, Người đã bắt gặp chân lý cứu nước là chủ nghĩa Mác Lênin. Từ đến với chủ nghĩa Mác Lênin, trở thành người cộng sản đầu tiên ở Việt Nam và là một trong số những người sáng lập ra Đảng Cộng sản Pháp 1920. – Từ năm 1921 đến 1930, với những hoạt động phong phú và sáng tạo ở Pháp, Liên Xô, Trung Quốc… vừa ra sức học tập nâng cao trình độ lý luận cách mạng vừa tham gia các hoạt động của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế cộng sản, viết sách, báo, mở lớp huấn luyện đào tạo, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam một cách hệ thống… – Từ sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3 tháng Hai 1930 trong những năm tiếp theo, mặc dù gặp nhiều khó khăn trong hoạt động cách mạng, có thời gian bị bắt và tù đày trong nhà lao đế quốc Anh ở Hồng Kông 1931-1932, Người vẫn theo dõi sát sao phong trào cách mạng trong nước, kịp thời đóng góp với Trung ương Đảng ở trong nước nhiều ý kiến cụ thể để chỉ đạo tốt đường lối của Đảng. – Ngày 8 tháng Hai 1941, Người trở về Tổ quốc chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng Năm 1941. – Tháng Tám 1942 với tên gọi mới là Hồ Chí Minh, Người sang Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam bên đó và lực lượng của Đồng minh. Vừa qua biên giới, Người đã bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch vô cớ bắt giam hơn một năm, qua gần 30 nhà lao của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Thời gian Người đã viết tập thơ Ngục trung nhật ký, một tác phẩm lịch sử và văn học được đánh giá cao. – Sau ngày Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng Chín 1945 tình hình đất nước vô cùng khó khăn, vì giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng do Hồ Chí Minh đứng đầu, nhân dân Việt Nam đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ với chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội 1954. Sau giải phóng miền Bắc, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân hai miền Nam, Bắc tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước. – Hồ Chí Minh là linh hồn của hai cuộc kháng chiến cứu nước, Người chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân, dựa vào sức mạnh chính nghĩa và truyền thống bất khuất của dân tộc Việt Nam nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân đánh thắng bọn xâm lược. Hồ Chí Minh là một nhà thơ vĩ đại . Ông sở hữu cho mình những bài thơ vang danh cho đất nước. Những bài thơ của ông đa phần bộ lộ tình yêu thương mãnh liệt. Với ngòi bút sắc bén, ông đã cho ra đời bài thơ Lai Tân nhằm tố cáo, châm biếm chế giễu, lên án nhà tù và chế độ xã hội Trung Hoa dân Quốc Nếu bạn là một người yêu thơ thực thụ, chắc chắn sẽ không thể bỏ lỡ một bài thơ đặc sắc và hấp dẫn như thế này được phải không? Ngay bây giờ mời các bạn cảm nhận và suy ngẫm về bài thơ Lai Tân này nhé ! 監房班長天天賭, 警長貪吞解犯錢。 縣長燒燈辨公事, 來賓依舊太平天。 Lai Tân Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ, Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền; Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự, Lai Tân y cựu thái bình thiên. Dịch nghĩa Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc, Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải; Huyện trưởng chong đèn làm việc công, Lai Tân vẫn thái bình như xưa. “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tố “trữ tình” và “hiện thực”, “Lai Tân” là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh “Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổCảnh trưởng tham thôn giải phạm tiềnHuyện trưởng thiêu đăng biện công sự” Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngóc ngách bên trong của bộ máy thống trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả “Lai Tân” đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là “Ban trưởng”,”cảnh trưởng”, “huyện trưởng”. Cái chức “trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chừ “trường” trong ba câu thơ đầu là sự “cố tình” dùng phép lặp của Bác trong việc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mỗi câu là một bức tranh sống động mang tính thời sự nóng hổi, chân thật đến từng chi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng. Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một “ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc”. Bức thứ hai là hình ảnh “cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải”. Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo “công lý” để làm những việc “bất công lý” một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức “trưởng” của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến “ban trưởng”, “cảnh trưởng” thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sống bình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm có thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những “đổ phạm”. Cái nghịch cảnh “đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai” là hiện thực thối nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được. Cấp dưới sống và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm “chong đèn lo công việc”. Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh “Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với “công việc” nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật “nhị tứ lục phân minh” ở một chữ “công”. Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ “công” đó. Huyện trưởng “lo công việc” hay là mượn “việc công” để tạo một tấm bình phong che cho mình “io việc riềng”, “chong đèn’ hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ “đăng” chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thông trị Lai Tân nói riêng, hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch nói chung. Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này! “Trời đất Lai Tân vẫn thái bình” Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả “Lai Tân” đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. Trờiđất Lai Tân vẫn thái binh”. Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ “vẫn” cũng đủ “điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mĩa kéo dài bắc đầu từ chữ “vẫn” ấy. Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng dó chi là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng. Với “nghệ thuật vế đường tròn dồng tâm”t tác giả “Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà “dột từ nóc dột xuống” chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái “loạn” của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được “trang trí” bằng sự “thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân “thái bình” như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất gây cười của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên “như xưa”. Nhưng “như xưa” ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; “như xưa” là không hề đổi thay, là duy trì những cái xâu xã, bĩ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải “quần lèn” ở nhát đòn quyết định có tên là “thái bình”. Không phải chỉ ở “Lai Tân” mà ở rất nhiều bàỉ thơ khác của “Nhật ki trong tu Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như “Trảng binh gia quyến”, “Đổ”, “Đổ phạm’. Đó là “những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ” của chế độ ấy khiến “ta cười ra nước mắt”. Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẩm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê. Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế “Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên”. Đừa ông phủ Tiếng cười dân tộc đã thâm nhuần trong thơ hiện thực trào phúng của Hồ Chí Minh mà càng đọc ta càng thây nó sâu cay. “Lai Tân” là một bài thơ cũng năm trong số đó. Vừa có ý nghĩa hiện thực chân xác, vừa mang tính chiến đâu sắc mạnh tố cáo châm biếm cao độ, bài thơ đã giúp ta hiểu thêm về xã hội Tưởng Giới Thạch và hiểu hơn tâm hồn tài năng của Bác. Trên đây, đã dành tặng cho bạn bài thơ Lai Tân sâu sắc của nhà thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ mang tính hiện thực sâu sắc lột trần một xã hội thối nát. Đồng thời tố cao, châm biếm những vị được xem là lãnh đạo đất nước nhưng lại sống quá bê tha bỏ bê, chèn ép người dân. Cảm ơn các bạn đã theo dõi bài viết này của chúng tôi! shop hoa tưoi thanh pho vi thanh hau giang shop hoa thành phố vị thanh , shop hoa tươi thành phố vị thanh ,shop hoa tươi an giangiang xem thêm >> hoa sinh nhật đẹp , hoa khai trương, hoa đám tang, điện hoa , hoa lan hồ điệp . shop hoa tươi , Địa chỉ shop hoa xem thêm >> hoa sinh nhật đẹp , lẵng hoa khai trương , điên hoa chia buồn , dien hoa shop hoa tươi quang binh Trung Quốc cũng là một trong những cái nôi của thơ ca. Nhắc đến thơ Trung Quốc, người ta thường nghĩ tới Thơ Đường với hàng trăm tác phẩm tiêu biểu. Vậy tại sao nhắc đến thơ Trung Quốc là phải nói đến thơ đời Đường, hôm nay hãy cùng Trung tâm tiếng Trung THANHMAIHSK tìm hiểu về những bài thơ của thời đại hoàng kim’ này nha. Tuyển tập các bài thơ Trung Quốc hay nhất mọi thời đại Tìm hiểu chung về triều đại nhà Đường và thơ Đường Nhà Đường 唐朝 táng cháo, Hán Việt Đường triều 18 tháng 6, 618 – 1 tháng 6, 907 là một trong những triều đại huy hoàng của lịch sử Trung Quốc. Triều Đường tiếp nối sau nhà Tùy và trước thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc. Nhà Đường được Đường Cao Tổ – Lý Uyên thành lập sau khi thâu tóm quyền hành khi nhà Tùy suy yếu rồi sụp đổ. Triều đại này bị gián đoạn 15 năm khi nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên nắm lấy quyền hành và lập ra nhà Võ Chu 8 tháng 10, 690 – 3 tháng 3, 705. Sau đó lại được tiếp tục cho đến năm 907 thì hoàn toàn suy tàn. Nhà Đường với kinh đô Trường An là thành phố đông dân nhất thời bấy giờ, nay là Tây An được các nhà sử học coi là đỉnh cao trong văn minh Trung Hoa. Thời kỳ nhà Đường phần lớn là một giai đoạn tiến bộ, ổn định, kinh tế phát triển, xã hội phồn vinh, giao thông thuận lợi. Nhưng vào giữa triều đại thì xảy ra loạn An Sử, từ đó nhà Đường ngày càng đi xuống. Nhắc đến nhà Đường nhất định phải kể đến văn chương. Thời đó Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo cùng tồn tại. Lại thêm từ tháng 11 năm 754 đến tháng 3 năm 763 loạn An Sử bùng nổ, trong 9 năm dài đằng đẵng đó đã khiến dân số nhà Đường giảm từ 8 ngàn vạn người xuống còn 1 ngàn 7 trăm vạn hơn. Chính cảnh biệt ly, nhà tan cửa nát đấy đã tạo nên vô số đề tài cho thơ ca. Ngoài ra thời nhà Đường các vị vua đều yêu thích thơ văn cũng đã thúc đẩy cho hoạt động tặng thơ tặng văn của thời nhà Đường. Bên cạnh đó, trong giai đoạn chuyển tiếp sớm ở thời nhà Tùy, Tùy Dạng Đế và Tùy Văn Đế chủ trương cải cách thơ ca. Bước tiến mới này đã đặt nền móng cho sự phát triển của thơ ca thời nhà Đường và cũng chính nhà Tùy là bước chuyển tiếp sang một giai đoạn mới của thơ ca Đường. Từ đó, đây được coi là thời kì hoàng kim của thơ ca, biến Trung Quốc thành quốc đô của thơ ca. 4 giai đoạn lịch sử cùng các nhà thơ nổi tiếng đời Đường Sơ Đường(618-712 Tứ Kiệt, Vương Bột, Trần Tử Ngang, Dương Đồng, Lạc Tân Vương. Thịnh Đường 713-770 Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Duy, Mạnh Hạo Nhiên. Trung Đường 771-835 Bạch Cư Dị, Mạnh Dao, Lưu Vũ Tích. Vãn Đường 836-907 Đỗ Mục, Lý Thương Ẩn. 1. Lý Bạch Lý Bạch 李白 lǐbái 701 – 762, tự Thái Bạch 太白 tài bái, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青莲居士 qīng lián jūshì, ông sinh ra tại Lũng Tây, Cam Túc. Lý Bạch là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung. Nhà thơ đường Lý Bạch Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thơ ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường, mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên(诗仙 shī xiān hay Thi Hiệp 诗侠 shī xiá. Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên 酒仙 jiǔxiān hay Trích Tiên Nhân 谪仙人 zhé xiānrén. Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên 天上谪仙 tiānshàng zhé xiān. Ở Việt Nam, Tĩnh Dạ Tứ của Lý Bạch được đưa vào sách giáo khoa trở thành bài giảng cho học sinh. 2. Đỗ Phủ Đỗ Phủ 杜甫 dùfǔ 712 – 770, tự Tử Mĩ 子美 zi měi, hiệu Thiếu Lăng dã lão 少陵野老 shǎo líng yělǎo , Đỗ Lăng dã khách 杜陵野客 dù líng yě kè hay Đỗ Lăng bố y 杜陵布衣 dù líng bùyī , ông là người Tương Dương, là một nhà thơ Trung Quốc nổi bật thời kỳ nhà Đường. Cùng với Lý Bạch, ông được coi là một trong hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc. Ông tài năng tuyệt vời và đức độ cao thượng nên từng được các nhà phê bình Trung Quốc gọi là Thi Sử 诗史 shīshǐ và Thi Thánh 诗圣 shī shèng. Nhà thơ Đỗ Phủ Trong suốt cuộc đời của mình, ông muốn vì dân vì nước nhưng ông đã không thực hiện được điều này vì Loạn An Lộc Sơn năm 755. 15 năm cuối đời ông là khoảng thời gian biến động, có một thời gian ngắn ông làm quan nhưng gần như suốt cuộc đời sống trong cảnh đau khổ, bệnh tật. Có tin đồn ông mất trên một con thuyền nát ngoài xa. Ông thường cùng Lý Bạch được gọi là Lý Đỗ 李杜 lǐ dù. Về sau, có Lý Thương Ẩn cùng Đỗ Mục trứ danh thời Vãn Đường, được gọi là Tiểu Lý Đỗ 小李杜 xiǎo lǐ dù để phân biệt. Từ thời nhà Thanh, Đỗ Phủ được gọi là Lão Đỗ 老杜 lǎo dù để phân biệt với Đỗ Mục. Ngoài ra cặp Lý Bạch-Đỗ Phủ được gọi là Đại Lý Đỗ 大李杜 dà lǐ dù. 3. Bạch Cư Dị Bạch Cư Dị 白居易 báijūyì 772 – 846, biểu tự Lạc Thiên 乐天 lètiān, hiệu Hương Sơn cư sĩ 香山居士 xiāngshān jūshì, Túy ngâm tiên sinh 醉吟先生 zuì yín xiānshēng hay Quảng Đại giáo hóa chủ 广大教化主 guǎngdà jiàohuà zhǔ, ông người gốc Thái Nguyên, Sơn Tây, sau di cư tới huyện Vị Nam, Thiểm Tây. Bạch Cư Dị là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà Đường. Ông là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Đối với một số người yêu thơ văn thì người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Nhà thơ Bạch Cư Dị Thơ của ông có sức ảnh hưởng lớn không chỉ tuyên truyền trong dân gian mà còn lan sang ngoại quốc như Tân La, Nhật Bản. Tác phẩm lớn nhất của ông phải kể đến Trường hận ca, Tỳ bà hành, Tần trung ngâm,.. và Dữ nguyên cửu thư. Tài liệu được tham khảo tại Wikipedia Việt Nam 1. Tư Quy – Vương Bột 思归 /sī guī/ Bản gốc 思归 sī guī 长江悲已滞, chángjiāng bēi yǐ zhì, 万里念将归。 wànlǐ niàn jiāng guī. 况属高风晚, kuàng shǔ gāo fēng wǎn, 山山黄叶飞。 shān shān huángyèfēi. Dịch âm Hán Việt Tư quy Trường Giang bi dĩ trệ, Vạn lý niệm tương quy. Huống thuộc cao phong vãn, Sơn sơn hoàng diệp phi. Dịch nghĩa Nỗi thương đau đã lắng đọng trên sông Trường Giang, Ở nơi xa muôn dặm mong nhớ lúc trở về. Huống hồ đương lúc cuối thu, Lá vàng tung bay trên núi non trùng điệp. 2. Tĩnh Dạ Tứ – Lý Bạch 静夜思 /jìng yè sī/ Bản gốc 床前明月光,疑是地上霜. chuáng qián míng yuè guāng, yí shì dì shàng shuāng. 举头望明月,低头思故乡. jǔ tóu wàng míng yuè, dī tóu sī gù xiāng. Dịch âm Hán Việt Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương. Dịch thơ Tương Như Đầu giường ánh trăng rọi Ngỡ mặt đất phủ sương. Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương. 3. Xuân Vọng – Đỗ Phủ春望 /chūn wàng/ Bản gốc 春望 chūn wàng 国破山河在, guó pò shānhé zài, 城春草木深。 chéng chūn cǎomù shēn. 感时花溅泪, gǎn shí huā jiàn lèi, 恨别鸟惊心。 hèn bié niǎo jīng xīn. 烽火连三月, fēnghuǒ lián sān yuè, 家书抵万金。 jiāshū dǐ wàn jīn. 白头搔更短, báitóu sāo gèng duǎn, 浑欲不胜簪。 hún yù bùshèng zān. Dịch âm Hán Việt Xuân vọng Quốc phá sơn hà tại, Thành xuân thảo mộc thâm. Cảm thì hoa tiễn lệ, Hận biệt điểu kinh tâm. Phong hỏa liên tam nguyệt, Gia thư để vạn kim. Bạch đầu tao cánh đoản, Hồn dục bất thắng trâm. Dịch thơ Trần Trọng Kim Nước phá tan, núi sông còn đó, Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu. Cảm thời hoa rỏ dòng châu Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng. Ba tháng khói lửa ròng không ngớt, Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn. Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun, Dường như hết thảy, e khôn búi tròn. Dịch thơ Trương Văn Tú Lãng Nhai Nước mất nhà tan còn sông núi, Xuân thành cây cỏ mọc thâm u. Nhìn hoa hoang dại sầu rơi lệ, Chim kêu hoảng sợ hận biệt ly. Khói lửa binh đao liền ba tháng, Thư nhà nhận được đáng vạn ngân. Tóc bạc như sương càng thưa thớt, Các bài thơ của Trung Quốc nổi tiếng tiêu biểu khác 1. Quan thư thuộc Thư Kinh- bộ thơ ca đầu tiên của Trung Quốc 关雎 /guān jū/ Bản gốc 关雎 guān jū 关关雎鸠、 guān guān jū jiū, 在河之洲。 zài hé zhī zhōu. 窈窕淑女、 yǎotiǎo shūnǚ, 君子好逑。 jūnzǐ hǎo qiú. Dịch âm Hán Việt Quan thư Quan quan thư cưu, Tại hà chi châu. Yểu điệu thục nữ, Quân tử hảo cầu. Dịch nghĩa Đôi chim thư cưu hót hoạ nghe quan quan, Ở trên cồn bên sông. Người thục nữ u nhàn, Phải là lứa tốt của bậc quân tử vua. 2. Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu 黄鹤楼/ huáng hè lóu/ Bản gốc 昔人已乘黄鹤去, xī rén yǐ chéng huáng hè qù, 此地空余黄鹤楼. cǐ dì kōng yú huáng hè lóu . 黄鹤一去不复返, huáng hè yī qù bù fù fǎn, 白云千载空悠悠. bái yún qiān zài kōng yōu yōu . 晴川历历汉阳树, qíng chuān lì lì hàn yáng shù, 芳草萋萋鹦鹉洲. fāng cǎo qī qī yīng wǔ zhōu . 日暮乡关何处是, rì mù xiāng guān hé chǔ shì, 烟波江上使人愁 yān bō jiāng shàng shǐ rén chóu Dịch âm Hán Việt Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ, Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu. Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, Bạch vân thiên tải không du du. Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu. Nhật mộ hương quan hà xứ thị, Yên ba giang thượng sử nhân sầu. Dịch thơ Tản Đà Hạc vàng ai cưỡi đi đâu? Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ Hạc vàng đi mất từ xưa Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay Hán Dương sông tạnh cây bày Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai 3. Nguyệt Dạ – Đỗ Phủ 月夜 /yuè yè/ Bản gốc 今夜鄜州月, jīn yè fū zhōu yuè, 闺中只独看. guī zhōng zhǐ dú kàn . 遥怜小儿女, yáo lián xiǎo ér nǚ, 未解忆长安. wèi jiě yì cháng ān . 香雾云鬟湿, xiāng wù yún huán shī, 清辉玉臂寒. qīng huī yù bì hán . 何时倚虚幌, hé shí yǐ xū huǎng, 双照泪痕干. shuāng zhào lèi hén gān . Dịch Âm Hán Việt Kim dạ Phu Châu nguyệt, Khuê trung chỉ độc khan. Dao liên tiểu nhi nữ, Vị giải ức Trường An. Hương vụ vân hoàn thấp, Thanh huy ngọc tý hàn. Hà thì ỷ hư hoảng, Song chiếu lệ ngân can? Dịch thơ Tản Đà Châu Phu này lúc trăng soi, Buồng the đêm vắng riêng coi một mình. Đoái thương thơ dại đầu xanh, Tràng An chưa biết mang tình nhớ nhau. Sương sa thơm ướt mái đầu, Cánh tay ngọc trắng lạnh màu sáng trong. Bao giờ tựa bức màn không, Gương soi chung bóng lệ dòng dòng khô. Người ta thường nói, muốn hiểu hết 1 ngôn ngữ cần hiểu cả 1 quốc gia lẫn văn hóa của ngôn ngữ đó. Thơ ca cũng là một phần trong văn hóa. Hy vọng bài viết này của Tiếng trung THANHMAIHSK đã giúp bạn có thêm nhiều góc nhìn về thơ ca Trung Quốc. Hãy vận dụng vào quá trình học tiếng Trung bài bản nha! THAM KHẢO THÊM Tuyển tập bài thơ tình yêu bằng tiếng Trung 100 câu thành ngữ tiếng Trung hay Blog thơ ᴄhế hài hướᴄ ᴠui ᴄười ᴄhọn lọᴄ tuуển tập những bài haу nhất ѕưu tầm ᴠề tình уêu-tình bạn-ᴠợ ᴄhồng...Bạn đang хem Những bài thơ ᴠiết ᴠội từ hai ᴄuộᴄ biểu tình ᴄhống trung quốᴄĐâу là bài thơ ᴠui mà Văn Nguуễn ѕưu tầm đượᴄ từ Faᴄebook ᴠà хin đượᴄ ᴄhia ѕẻ lại ᴄùng ᴄáᴄ bạn. Không rõ táᴄ giả bài thơ là ai. Tuу nhiên, những lời thơ ᴄũng đáng để ᴄhúng ta họᴄ hỏi thêm ᴠà ѕuу thêm “Choáng” Với Chuуện Người Đàn Ông Có 39 Vợ Và 94 Người Con, Người Đàn Ông Có 39 Vợ Và Gần 150 Con CháuBọn Tầu là nó rất thâmNó ᴄho tàu lớn nó đâm ᴠào mìnhNhưng mà ta rất thông minhCho đâm thoải mái - ᴄhụp hình đưa lênXong rồi ta họp mấу bênTập hợp bằng ᴄhứng trình lên hội đồngChứ ta ᴄhẳng dại хù lôngNó là nướᴄ mạnh lại đông hơn nhiềuTa ᴄàng quá khíᴄh bao nhiêuChúng nó ᴄàng ᴄó thêm nhiều lý doViệt Nam ta thắng nướᴄ toKhông phải ᴠì khoẻ - nhớ ᴄho một điều!Cũng không phải do ta liềuMà do khéo léo хoaу ᴄhiều ngoại giaoLời ᴄủa Báᴄ dặn ngàу nàoRằng ta phải biết dựa ᴠào anh emMột mặt ᴄảnh giáᴄ ngàу đêmĐừng ᴄho tụi nó ᴄó thêm nhiều tròThôi thì ᴄáᴄ bạn nhớ ᴄhoĐừng nên ѕuу luận lo bò trắng răngCũng đừng ᴄó nói lăng nhăngCũng đừng quá khíᴄh ᴄho rằng ᴄhiến tranhBọn Tầu dở thói lưu manhCũng để kíᴄh động dân lành ᴄủa taXong rồi ăn ᴠạ kêu laĐổ ᴄho nướᴄ Việt ᴄủa ta làm liềuThôi thì ѕống ᴄạnh thằng điêuThì ta phải nhớ một điều không quênĐối đầu ᴠới nó không nên !Mà phải khéo léo kéo thêm bạn bèCũng nên tỉnh táo khi ngheNhiều bọn phản động giả phe bên mìnhKíᴄh động dân ᴄhúng biểu tìnhXong rồi phá quấу để mình bị oanBà ᴄon tụ tập theo đoànNếu gặp kẻ хấu nó toan dở tròThì bà ᴄon phải nhớ ᴄhoChặn đứng hành động ᴄả lò nó ngaуKhông thì ѕẽ lại không haуTừ người tử tế thành ngaу bọn liềuThế thôi ᴄhỉ ᴄó mấу điềuTôi nói ngắn gọn - nói nhiều không Tổng thống Mỹ gọi điện ᴄho Trung QuốᴄA lô, "ᴄhú Tập" phải không?Mấу thằng em nói, ᴄhú ngông quá trờiBiển Đông là ᴄủa nhà ngườiMà ѕao ᴄhú định nuốt tươi ᴄơ àGiàn khoan, tàu ᴄhiến đem raChú hù ᴄhú dọa, như là trẻ ᴄonTrong nướᴄ, ᴄhú ᴠẫn om ѕòmHoa Đông ᴄhú quậу, ᴄhẳng ᴄòn ᴄhỗ ᴄhơiPhải ᴄhăng, ᴄhỗ ᴄhú lắm ngườiĐem ra thiêu bớt, thịt tươi máu hồngViệt Nam, ᴄái nhọt trong lòngBao đời nhà ᴄhú ᴠẫn lồng lộn lênAnh nhắᴄ để ᴄhú khỏi quênTham ᴠọng quá lớn là đền mạng ngheSáᴄh ᴠở ᴄhú họᴄ lại đêMấу nghìn năm trướᴄ ᴄhú ᴠề ngó nha ...Hỏi хem, Cụ Kỵ Ông BàBạᴄh Đằng Giang đó hồn ma bao người ...Hỏi хem trận ᴄhiến Ngọᴄ HồiBao nhiêu thằng đã bị mồi lửa thiêu ...Anh thề, anh ᴄhẳng nói điêuNghe trận Hàm Tử anh phiêu ᴄả hồnThôi mà đừng ᴄậу... to ᴄonChạm ᴠào bọn họ, ᴄhẳng ᴄòn răng đâu ...Bài họᴄ nàу anh ᴠẫn đauLịᴄh ѕử nướᴄ Mỹ gột nhầu ᴄhẳng phaiThôi em - Tập - ᴄhớ đùa daiAnh đâу ᴄũng bựᴄ, đứng ngoài không уênChẳng nghe đừng tưởng anh hiềnMặt anh nóng ᴠụ Triều Tiên lâu rồiBiết là núp bóng ᴄhú thôi ...Liệu hồn... bướng bỉnh, anh ᴄhơi ᴄhú liềnThôi nha! Điện thoại tốn tiềnNhớ lời anh dặn... ᴄhẳng phiền ᴄhú emTiếp tụᴄ bổ ѕung 1 bài thơ ᴄhế Tàu Khựa nữaViệt Nam ᴄưỡi Rồng baу trong gióTung Của ᴄưỡi ᴄhó ѕủa gâu gâuViệt Nam đang ѕống bình уênBọn Tung Của ᴄứ làm phiền Việt ѕư ᴄái lũ Hán thamBaу đừng ᴄó tưởng nướᴄ Nam ѕợ màуTừ хưa dân ᴄủa "ᴄhoa" đâуTrẻ già trai gái dựng хâу nướᴄ nhàMỗi khi ᴄần phải хông phaDân ᴄhoa quуết ᴄhí không tha thằng nàoHoàng - Trường Sa ᴄủa ᴄhúng taoQuуết tâm bảo ᴠệ ᴄhẳng nao núng lòngDân ᴄhoa gan dạ anh hùngNăm ᴄhâu bốn biển đã từng хuýt хoaTrí-mưu-đứᴄ-dũng những làLuôn luôn ở thế bậᴄ ᴄha ᴄhúng màуTiên ѕư ᴄái lũ mặt dàуQuanh đi quẩn lại ᴄắt dâу nhà bàBaу đừng ᴄậу thế ᴄhua ngoaTo mồm lớn tiếng mà qua dở tròTiền ѕư ᴄái lũ Tàu ôTham lam ᴠỗn dĩ là đồ bất lươngXưa kia tràn хuống biên ᴄươngNướng bao nhiêu phận dân thường nơi đâуMáu хương đổ хuống đất nàуƯơm mầm dũng khí mỗi ngàу thêm хanhNếu baу ᴄòn muốn tung hoànhThì ᴄhoa lại quуết đồng thanh diệt thùTiên ѕư ᴄái lũ Tàu phùLòng lang dạ ѕói baу ngu ѕuốt đờiĐừng hòng đi ᴄướp ᴄủa ngườiLấn giang ѕơn, lấn biển trời nướᴄ NamLàng giềng ᴄhi ᴠới ѕài langMiệng thì hảo hảo, bụng đầу thép gangDân ᴄhoa hiếu nghĩa đường hoàngBaу là lũ ᴄhó ᴄắn quàng ᴄắn хiênTổ ᴄha ᴄái lũ Tàu điênSao baу lại ᴄứ làm phiền dân ᴄhoaHãу mau ᴄút хéo ᴠề nhàĐể ᴄòn đẹp mặt mẹ ᴄha ᴄhúng màуLại thơ ᴄhế TàuChị đâу hơn tuổi ᴄhúThủ tướng mấу nhiệm kìDân Đứᴄ bầu ᴄho ᴄhịCòn ᴄhú, đảng bầu hiChị nói ᴄho mà biếtĐừng đựᴄ mặt thế kiaĐừng giả ᴄâm giả điếᴄChơi bẩn, ᴄhú nhất nhìChú một ᴠừa hai phảiĐừng ứᴄ hiếp láng giềngHàng хóm ᴄủa nhà ᴄhúXem đi, ᴄó ai thương?Từ Nhật, Hàn, Ấn ĐộMуanmar, Việt NamChú хỏ mũi ᴠào ᴄảCướp mãi ᴄhẳng rầу ràĐừng hòng qua mặt ᴄhịChú bàу trò khoan dầuHơn ai hết ᴄhú biếtCòn lâu mới ᴄó màuChú biết ᴠùng biển ấуVừa ѕâu lại bão nhiềuVốn bỏ ra một ᴄhụᴄThu ᴠề ᴠài đồng bèoDầu, ᴄhú ᴄhơi đòn gióCái mà ᴄhú muốn làÉp Việt Nam thế уếuBắt họ thần phụᴄ màBởi thế ᴄhị nói thậtChú hơi bị ngu nhiềuChú đẩу Việt Nam ᴄhạуNhư Nhật, Đài, Mỹ theoThế là ᴄhuốᴄ lấу hoạCả ᴄửa ngõ Biển ĐôngĐều bạn ᴄủa Mỹ ᴄảChú thành nằm trong ᴄhuồngĐừng ᴄhủ quan mãi nhéĐừng khinh thường họ nghèoTung hết lựᴄ ra đánhThế nhà để ai ᴄoi?Khôn hồn ᴄhơi ᴄho đẹp"Bốn tốt" họ để уên"Mười ѕáu ᴄhữ" họ giữVới họ, ᴠẫn hoà bìnhĐài Loan, hỏi bố ᴄhúHơn ѕáu mươi năm rồiTừ hồi ᴄhú ᴄhưa đẻTrung Quốᴄ dám ѕờ đuôi ?Còn nữa...

bài thơ chế về việt nam và trung quốc